Video sản xuất bởi Wellcome, với sự xuất hiện của Phó giáo sư Sophie Yacoub, Trưởng nhóm Nghiên cứu sốt xuất huyết tại OUCRU.
Sốt xuất huyết tạo gánh nặng lớn cho sức khỏe cộng đồng toàn cầu; các ước tính gần đây cho thấy mỗi năm có 51-96 triệu ca sốt xuất huyết có triệu chứng tại hơn 120 quốc gia. Dẫu vậy, hiện vẫn chưa có phương pháp trị liệu được cấp phép cho bệnh này. Một số ít ca bệnh có thể biểu hiện tình trạng sốc và suy cơ quan nghiêm trọng do phản ứng miễn dịch vật chủ không cân xứng. Việc phân biệt nhóm này với hàng nghìn ca bệnh nhẹ hơn ở các cơ sở y tế tại các vùng dịch bệnh vẫn còn nhiều thách thức và cần có các chiến lược đổi mới để cải thiện việc quản lý ca bệnh và thúc đẩy việc sử dụng phù hợp các nguồn lực hạn chế.
Để thực hiện các mục tiêu này, chúng tôi đã thiết lập nền tảng nghiên cứu lâm sàng tập trung vào việc tìm hiểu cơ chế bệnh sinh và sinh lý bệnh của sốt xuất huyết, các thử nghiệm điều trị và nghiên cứu côn trùng học lâm sàng. Trong 5 năm qua, trọng tâm nghiên cứu của chúng tôi mở rộng thêm công nghệ tiên tiến, giám sát hiện đại và các phương pháp tiếp cận y học chính xác để cải thiện việc quản lý sốt xuất huyết.
Nhóm Nghiên cứu Sốt xuất huyết của OUCRU đã có những đóng góp đáng kể trong việc hiểu cơ chế bệnh, xác định chỉ dấu sinh học và biến các tài liệu này thành các chẩn đoán và điều trị mới.
Chúng tôi đã hợp tác với Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) để chứng minh protein phản ứng C là chỉ dấu sinh học tiềm năng cho tiến triển bệnh.
Việc xác định tổ hợp các chỉ dấu sinh học viêm nhiễm, miễn dịch và mạch máu được đo trong giai đoạn đầu của bệnh có thể giúp dự đoán sự phát triển của bệnh vừa-nặng.
Trong một tập dữ liệu tổng hợp lớn gồm 5.600 bệnh nhân đã tham gia vào nhiều nghiên cứu trong hơn 15 năm, chúng tôi đã chứng minh rằng mức viraemia huyết tương cao liên quan đến mức độ nghiêm trọng của bệnh, bất kể loại huyết thanh hoặc tình trạng miễn dịch của vật chủ.
Gần đây, chúng tôi đã hợp tác với DUKE-NUS để chứng minh vai trò quan trọng của PCSK9 và cholesterol trong tế bào trong sốt xuất huyết. Nghiên cứu này chỉ ra cách PCSK9 định hình cholesterol trong tế bào để tạo thuận cho việc sinh sản của vi-rút sốt xuất huyết, và giúp công nhận chất ức chế PCSK9 là phương pháp điều trị sốt xuất huyết tiềm năng trong tương lai.
Trong mười năm qua, chúng tôi đã phát triển chương trình thử nghiệm điều trị sốt xuất huyết lớn nhất trên thế giới, với bốn nghiên cứu giai đoạn 2 tìm hiểu các điều trị bổ trợ và thuốc kháng vi-rút (Lovastatin, Corticosteroid, Chloroquine và Balapiravir).
Trong hai năm qua, việc tăng cường hiểu biết về các con đường sinh học và các yếu tố nguy cơ cho phép chúng tôi phát triển những chiến lược điều trị mới bằng cách sử dụng các điều trị đích, tập trung vào các nhóm bệnh nhân có nguy cơ mắc bệnh nặng cao nhất. Chúng tôi đang tiến hành thử nghiệm sử dụng metformin như một phương pháp trị liệu nhắm vào vật chủ cho bệnh nhân sốt xuất huyết có tình trạng béo phì và tìm hiểu cơ chế cơ sở của việc bệnh nhân béo phì có nguy cơ mắc bệnh nặng.
Nhóm nghiên cứu sẽ bắt đầu thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên giai đoạn 2 bằng cách sử dụng Anakinra (chất đối kháng IL1R) cho bệnh nhân sốt xuất huyết có tình trạng viêm siêu vi điểm vào năm 2023. Ngoài ra, chúng tôi đang tiến hành hai thử nghiệm sử dụng thuốc kháng vi-rút do Dược phẩm Janssen phát triển; thuốc được dùng trong điều trị ở thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên giai đoạn 2 và trong dự phòng ở nghiên cứu cụm hộ gia đình cộng đồng.
Một chủ đề nghiên cứu chính khác của chúng tôi là tìm hiểu sinh lý bệnh của hội chứng rò mạch máu, tối ưu hóa quản lý dịch và theo dõi tim mạch cải tiến ở hội chứng sốc sốt xuất huyết (DSS).
Chúng tôi đã chứng minh rối loạn chức năng tim có tác động đến DSS và khi nào nên sử dụng siêu âm tim để điều chỉnh cách quản lý bệnh. Công trình này đã giúp đưa siêu âm tại điểm khám tim vào hướng dẫn điều trị sốt xuất huyết quốc gia của Việt Nam và Malaysia. Chúng tôi đã đóng góp dữ liệu cụ thể về hội chứng rò mạch máu ở sốt xuất huyết thông qua các nghiên cứu in-vivo và in-vitro, chứng minh sự gián đoạn của lớp glycocalyx nội mô và con đường oxit nitric, cũng như thông qua nghiên cứu liên kết trên toàn hệ gen lớn nhất để xác định các đa hình di truyền mới liên quan đến DSS.
Trong 18 tháng qua, nhóm nghiên cứu đã phát triển các công nghệ tiên tiến thuộc giải thưởng hàng đầu của Wellcome. Chúng tôi cộng tác với các nhóm kỹ sư tại Đại học Imperial College London để phát triển bộ cảm biến không xâm lấn, có thể đeo được đầu tiên trên thế giới, được thiết kế riêng để đánh giá tình trạng lâm sàng của bệnh nhân có DSS theo thời gian thực. Chúng tôi cung cấp dữ liệu sinh lý liên tục và sử dụng công nghệ máy học để tạo ra các hệ thống hỗ trợ quyết định lâm sàng (CDSS) để giúp xác định sớm DSS. Nhóm nghiên cứu cũng đang cộng tác với các chuyên gia hình ảnh tại Kings College London để phát triển siêu âm tim và phổi tự động để tạo thuận cho việc quản lý dịch ở sốt xuất huyết nặng.
Nhiều dịch bệnh với quy mô khác nhau xảy ra hàng năm trong mùa mưa ở các vùng dịch tễ; tuy nhiên dự đoán về địa điểm, thời gian và quy mô của các đợt bùng phát sốt xuất huyết tại các thành phố hiện chưa được triển khai. Biến đổi khí hậu và cụ thể là các hiện tượng cực đoan sẽ ảnh hưởng đến quần thể các vectơ muỗi truyền bệnh sốt xuất huyết và ảnh hưởng đến quy mô và thời gian bùng phát bệnh.
Hiện chúng tôi đang thực hiện dự án đa ngành lớn cùng Đại học Oxford và các tổ chức địa phương của Việt Nam để phát triển công cụ dự báo sốt xuất huyết cung cấp thông tin dự báo xác suất và mang tính hành động về vị trí và cường độ của các đợt bùng phát sốt xuất huyết.
DART là dự án do Wellcome tài trợ nhằm phát triển hệ thống dự báo sốt xuất huyết. Dự án nhằm sử dụng nhiều số liệu để đưa ra dự báo sốt xuất huyết có độ xác thực cao qua nhiều thời gian, bao gồm cả dự báo thời gian thực.
Chúng tôi đã dẫn dắt nghiên cứu đa quốc gia trên > 8000 bệnh nhân, tìm hiểu kết quả lâm sàng, các yếu tố nguy cơ và chỉ dấu sinh học của sốt xuất huyết.
Chúng tôi đã thành lập một phòng thí nghiệm nghiên cứu sâu bọ tại TP Hồ Chí Minh. Phòng thí nghiệm cho phép chúng tôi thực hiện những công trình độc đáo, bao gồm các nghiên cứu lịch sử tự nhiên đầu tiên về lây truyền sốt xuất huyết từ người sang muỗi và các bằng chứng quan trọng chứng minh rằng Wolbachia làm giảm khả năng lây truyền của muỗi sau khi đốt các bệnh nhân có tình trạng nhiễm vi-rút huyết. Ngoài ra, việc xác định và mô tả đặc điểm đầu tiên của các kháng thể đơn dòng của con người ngăn chặn lây truyền sốt xuất huyết từ máu nhiễm vi-rút huyết sang muỗi. Công trình này hiện nay thuộc khuôn khổ các thử nghiệm thực địa trong Chương trình Muỗi Thế giới.
WHO. Tổ chức Y tế Thế giới. Sổ tay quản lý lâm sàng bệnh sốt xuất huyết. Geneva: Tổ chức Y tế Thế giới
Tổ chức Y tế Thế giới. Sốt xuất huyết: Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị, phòng ngừa và kiểm soát – Ấn bản mới. Geneva: Tổ chức Y tế Thế giới
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi lớn duy nhất về DSS để so sánh ba loại dịch hồi sức. Kết quả chính của nghiên cứu – lactate ringer (một dạng tinh thể) có hiệu quả tương tự như hai chất keo trong việc hồi sức ban đầu cho bệnh nhi có DDS – đã được đưa vào hướng dẫn quản lý sốt xuất huyết của WHO vào năm 2009.